
如需非英文字幕,请先点击视频底部的“CC”选项,再点击齿轮图标[“GEAR_ICON”] 并从“CC/subtitle”中选择合适的语言

Para ver subtítulos en una lengua diferente al inglés, haz clic en la opción “CC” en la parte inferior de la pantalla del video, luego haz clic en el ícono de herramientas [“GEAR_ICON”] y selecciona la lengua en la opción “CC/subtítulos”.

Để xem phụ đề không phải tiếng Anh, hãy bấm vào nút ‘CC’ ở cuối màn hình video, sau đó nhấp vào bánh răng [“GEAR_ICON”?] và chọn từ tùy chọn ngôn ngữ “CC/subtitle”
Mô-đun này sẽ thảo luận về các chiến lược để thúc đẩy sự độc lập cho trẻ bằng cách đảm bảo mọi người hiểu rõ hướng dẫn, sử dụng thời gian chờ để học viên có đủ thời gian phản hồi và tránh hướng dẫn bằng tay.
Quiz | Bài kiểm tra | 测验 | Cuestionario
Resources | Tài nguyên | 资源 | Recursos
Transcript | Bản ghi | 文字记录 | Transcripción
Bạn đã bao giờ nhận ra rằng học viên khuyết tật trong chương trình có thể phụ thuộc vào người lớn để làm một số việc nhất định chưa? Bạn có nhận thấy người lớn giúp đỡ quá nhiều cho một số học sinh và và tự hỏi liệu họ có thể tự mình làm những việc này không?
Đáng tiếc là điều này xảy ra với rất nhiều học viên khuyết tật. Việc xây dựng sự độc lập ở mọi cơ hội chuẩn bị cho học viên thành công trong tương lai, giúp họ cảm thấy tự tin, phát triển quyền tự chủ, và đưa ra lựa chọn của riêng mình.
Trong video này, chúng ta sẽ nói về cách thúc đẩy sự độc lập cho trẻ trong và trước tuổi thanh thiếu niên bằng cách đảm bảo mọi người đều hiểu các chỉ dẫn, dùng thời gian chờ, và tránh hướng dẫn bằng cơ thể. Sau đó ta sẽ nói về cách Leonard, một cậu bé 13 tuổi mắc chứng tự kỷ, có thể tham gia một cách độc lập nhất có thể tại câu lạc bộ chơi game. Hãy cùng bắt đầu nào.
Điều đầu tiên cần cân nhắc khi rèn luyện về tính độc lập là đảm bảo rằng học viên biết những kỳ vọng là gì và họ phải làm gì. Dĩ nhiên, ta không kỳ vọng học viên sẽ độc lập với các nhiệm vụ mới nếu họ không biết họ phải làm gì. Đảm bảo rằng bạn đã dạy cho các học viên trong chương trình về các nhiệm vụ, thói quen hoặc hoạt động trước khi bạn kỳ vọng họ sẽ độc lập. Dùng các chỉ dẫn rõ ràng và làm mẫu chính xác những gì học viên phải làm cho mỗi thói quen hoặc hoạt động. Sau khi bạn chắc chắn họ biết rõ các thói quen và kỳ vọng, thì hãy nghĩ về cách bạn có thể xây dựng sự độc lập của họ. Nhưng đảm bảo rằng mọi người đều hiểu các chỉ dẫn luôn là bước đầu tiên của chúng ta.
Việc xây dựng sự độc lập đòi hỏi người lớn cố ý lùi lại và cho học viên cơ hội để tự mình làm mọi việc. Điều này có thể khó khăn. Thỉnh thoảng, học viên cần thêm thời gian để hoàn thành một số thói quen hoặc hoạt động nào đó và xử lý các chỉ dẫn mà họ đã nghe. Điều này được gọi là thời gian chờ. Hãy nghĩ về việc cho học viên khoảng 3 đến 5 giây và đếm thầm trước khi bước vào giúp đỡ. Thời gian chờ này cho họ cơ hội tự mình làm mọi việc trước khi người lớn đưa ra sự trợ giúp có thể không cần thiết. Dùng thời gian chờ ở môi trường học tập trung học bận rộn có thể khó khăn, nhưng đây là một phần rất quan trọng về xây dựng tính độc lập. Chúng ta phải cho học viên cơ hội tự mình làm mọi việc, trước khi chúng ta tham gia giúp đỡ. Hãy kiên nhẫn và đếm đến năm trong đầu trước khi bạn giúp đỡ.
Học viên khuyết tật thường được người lớn hướng dẫn về thể chất. Hướng dẫn thể chất là mức hỗ trợ chuyên sâu nhất mà học viên có thể nhận được. Với mức hỗ trợ cao này, thật dễ dàng cho học sinh trở nên phụ thuộc vào người lớn để làm một số việc nhất định, như tìm một lớp học, đặt bài tập vào một bìa cứng, hoặc dọn dẹp vật liệu. Chạm vào cơ thể cũng có thể cảm thấy không thoải mái hoặc gây khó chịu cho một số học viên, đặc biệt là với những người nhạy cảm khi bị chạm vào, như thường gặp ở nhiều người bị khuyết tật. Thay vì hướng dẫn trực tiếp cho học viên, ta có thể sử dụng các chiến lược như cử chỉ hoặc hình ảnh. Những hỗ trợ này ít tác động hơn, nhanh quên hơn, nhưng giúp xây dựng tính độc lập ngay từ đầu.
Bây giờ, ta hãy xem hai kết quả khác nhau cho Leonard và cách người lớn giúp xây dựng tính độc lập. Leonard rất hào hứng tham gia câu lạc bộ chơi game tại trung tâm cộng đồng địa phương. Cha mẹ cậu bé rất hào hứng mở rộng vòng kết nối xã hội cho trẻ và thực hiện một trong các hoạt động yêu thích của cậu bé.
Ngày đầu tiên, cậu bé được chào đón nồng nhiệt bởi một trong các nhân viên, cô May. Cô mang ba lô của cậu bé và treo lên móc. Cô May rất hào hứng chào đón Leonard tham gia, và muốn đảm bảo cậu bé có một thời gian tuyệt vời và cảm thấy thành công. Sau đó cô May bảo Leonard tham gia nhóm trẻ em ở bàn xanh. Khi Leonard không đi qua ngay, cô May đặt tay lên vai cậu bé và dẫn cậu đến đó. Cô hỏi cậu bé thích chơi trò chơi nào, và khi Leonard không trả lời ngay, cô ấy mở một hộp và bắt đầu sắp xếp các mảnh ghép, nói “Ồ, chúng ta có thể chơi cái này cùng nhau.” Trong khi những đứa trẻ khác chơi các trò chơi với nhau. Leonard chỉ làm việc với cô May. Vào cuối tuần, cậu bé không chơi trò chơi với bạn nào hoặc học trò chơi mới nào. Dù cậu bé vui vẻ dành thời gian chơi với người lớn, nhưng không có bất kỳ cơ hội nào để phát triển các mối quan hệ hay mở rộng vòng tròn chơi game của cậu.
Bây giờ, hãy xem một câu chuyện khác về Leonard. Vào ngày đầu tiên của câu lạc bộ trò chơi, cậu được cô May niềm nở chào đón. May cho Leonard xem một hình ảnh trực quan có hình chiếc ba lô và các móc treo trên tường. Cô May nói với Leonard rằng điều đầu tiên cần làm mỗi ngày là treo ba lô lên móc và sau đó, chọn một bàn chơi để tham gia. Cô May chỉ vào móc treo tường và cậu bé treo ba lô lên. Sau đó cô May mời Leonard ngồi vào bàn màu xanh lá nơi các trẻ đang thiết lập một trò chơi gọi là Ticket to Ride. Cô May chờ một lát, và khi Leonard vẫn chưa tự giác đi tới, cô liền chỉ tay về phía chiếc bàn màu xanh lá và nói: “Mình đi cùng nhau nha.” Khi đến đó, cô May giúp bọn trẻ—Kai, Lars và Leonard—chọn màu mà chúng muốn và đảm bảo Leonard có tất cả các thẻ của mình. Cậu bé chia sẻ rằng mình chơi trò chơi này ở nhà với bố và cậu bé biết phải làm gì. Kai đi trước và trò chơi bắt đầu.
Ngày hôm sau, cô May khuyến khích Leonard thử một trò chơi bài mới. Cô May đã sửa đổi các chỉ dẫn và tạo một hình ảnh nêu rõ các quy tắc. Cô giới thiệu điều này với nhóm và rất vui khi thấy Leonard bắt đầu ngay khi chia bài cho những người bạn mới. Cô May thỉnh thoảng kiểm tra cùng với Leonard, đưa ra phản hồi tích cực, và cho cậu bé biết mình có thể yêu cầu giúp đỡ nếu cần. Vào cuối tuần, cô May rất hào hứng chia sẻ với cha mẹ của Leonard rằng cậu bé đã có các bạn mới và học được một vài trò chơi mới. Cô May cung cấp sự trợ giúp vừa đủ để hỗ trợ Leonard, đồng thời cho phép cậu bé tham gia độc lập, phát triển các mối quan hệ mới. Cậu bé và Kai thậm chí còn dự định chơi Ticket to Ride cùng nhau vào cuối tuần đó.
Bây giờ, hãy suy ngẫm về hai ví dụ khác nhau. Trong ví dụ đầu tiên, cô May không cho Leonard cơ hội tự mình làm mọi việc. Cô treo ba lô lên cho cậu bé và được dắt cậu bé đến bàn chơi. Tuy nhiên, trong ví dụ thứ hai, cô May dạy cậu bé thói quen cất ba lô qua hình ảnh và chỉ vào vị trí các móc treo tường. Với những hỗ trợ này, Leonard có thể tự cất đồ của mình. Cô ấy cũng chờ năm giây trước khi hỗ trợ thêm khi chỉ dẫn Leonard đến bàn màu xanh lá cây. Thay vì hỗ trợ bằng động tác, cô May chỉ vào và sau đó mời Leonard đi bên cạnh cô.
Ngoài ra, trong ví dụ thứ hai, thay vì chỉ cho Leonard cách chơi trò chơi bài, nói chuyện và ngồi cùng cậu bé suốt thời gian đó, cô đã đưa ra các hướng dẫn trực quan để cậu bé có thể tự thực hiện, thỉnh thoảng đến kiểm tra. Với những hỗ trợ này, Leonard tự mình làm mọi việc và kết bạn mới.
Mục tiêu của chúng ta là chỉ hỗ trợ đúng mức cho tất cả các học viên, như cô May đã làm với Leonard, và giúp họ làm mọi việc một cách độc lập nhất có thể. Bằng cách cố ý để thanh thiếu niên và trước thiếu niên tự mình làm mọi việc, chúng ta sẽ giúp họ tự lập, phát triển sự tự tin, và có năng lực trong môi trường của họ.
Bạn sẽ xây dựng tính độc lập thế nào trong chương trình của bạn?